nghề luật và nghề luật sư
Nghề luật
Ở nghĩa rộng nhất, nói đến những người làm nghề luật là chúng ta nói đến thẩm phán, luật sư, kiểm sát viên, công chứng viên…
Thẩm phán được hiểu là những người làm
việc tại Toà án, được quyền nhân danh Nhà nước để xét xử các vụ án. Thẩm
phán – ở nghĩa lý tưởng được hiểu là người được quyền ra quyết định
cuối cùng để mang lại sự công bằng cho mọi người, cứu người vô tội và
trừng phạt kẻ ác.
Kiểm sát viên là người buộc tội tại
phiên toà (ở nước ngoài thường được gọi là công tố viên). Họ được quyền
đưa một vụ phạm pháp ra xem xét để xử lý, ra lệnh bắt giữ, tham gia điều
tra vụ án, truy tố người phạm tội.
Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều
kiện hành nghề theo quy định của pháp luật của mỗi quốc gia, thực hiện
dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Luật sư là
những người hành nghề trong Văn phòng hoặc Công ty luật. Thu nhập của
luật sư là từ các khoản thù lao do khách hàng trả.
Công chứng viên là người làm việc tại các Phòng công chứng, có quyền xác nhận tính hợp pháp của các giao dịch, hợp đồng…
Nếu hiểu nghề luật như là nghề kiếm
sống có liên quan đến luật, có thể kể ra nhiều công việc khác cũng được
gọi là nghề luật như: chấp hành viên, điều tra viên, giám định viên,
chuyên viên pháp lý, cố vấn pháp lý, giáo viên dạy luật, cán bộ nghiên
cứu pháp luật… trong các cơ quan thi hành án dân sự, cơ quan công an, cơ
quan hành chính Nhà nước, các tổ chức đoàn thể, doanh nghiệp, trường
học, viện nghiên cứu… .
Ở nghĩa hẹp hơn, nói
đến nghề luật là chúng ta nói đến nghề luật sư. Nghề luật sư là nghề
luật tiêu biểu nhất, nghề luật sư thể hiện đầy đủ nhất những đặc trưng
của nghề luật.
Nghề luật sư không giống như những nghề
bình thường khác vì ngoài những yêu cầu về kiến thức và trình độ chuyên
môn thì yêu cầu về việc hành nghề luật sư còn phải tuân thủ theo quy
chế đạo đức nghề nghiệp. Đây là một nét đặc thù riêng của nghề luật sư
và nét đặc thù này tác động sâu sắc đến kỹ năng hành nghề, đặc biệt là
kỹ năng tranh tụng của luật sư.
Trong suy nghĩ của chúng ta, hoạt động nghề nghiệp của luật sư bao gồm ba tính chất: trợ giúp, hướng dẫn và phản biện.
(i) Tính chất trợ giúp: Do sự phát
triển không đồng đều cả về đời sống vật chất lẫn tinh thần, bất kỳ xã
hội nào trong cộng đồng dân cư cũng tồn tại những người rơi vào vị thế
thấp kém so với mặt bằng xã hội như người nghèo, người già đơn côi,
người chưa thành niên mà không có sự đùm bọc của gia đình. Những người ở
vào vị thế thấp kém này thường bị ức hiếp, bị đối xử bất công trái pháp
luật và rất cần sự giúp đỡ, bênh vực của những người khác và đặc biệt
cần sự trợ giúp hoàn toàn vô tư, không vụ lợi của luật sư.
Ở thời kỳ cổ đại, những người dám đứng
ra bênh vực, trợ giúp các đối tượng bị ức hiếp được xã hội tôn vinh như
là các “hiệp sỹ”. Ngày nay, xã hội loài người đã phát triển nhưng ở
nhiều nước, ở nhiều địa phương vẫn tồn tại những người ở vào vị thế thấp
kém, vẫn tồn tại sự ức hiếp, sụ đối xử bất công. Hoạt động trợ giúp của
luật sư đối với những đối tượng này không chỉ là bổn phận mà còn là
thước đo lòng nhân ái và đạo đức của luật sư.
(ii) Tính chất hướng dẫn: Tính chất
nghề nghiệp đòi hỏi luật sư không chỉ thông hiểu pháp luật hiện hành mà
còn hiểu biết cả tinh thần, nội dung những quy định của pháp luật ở từng
thời điểm của thời gian đã qua. Luật sư còn phải hiểu sâu rộng cả tục
lệ và bản sắc văn hoá của dân tộc.
Mọi người hiểu và nghĩ về luật sư như
vậy, cho nên mỗi khi bản thân hoặc gia đình có điều gì vướng mắc đều tìm
đến luật sư, nhờ luật sư tư vấn. Vì vậy, hoạt động của luật sư luôn
luôn có tính chất hướng dẫn. Yêu cầu của hoạt động này là hướng dẫn cho
đương sự hiểu đúng tinh thần và nội dung của pháp luật để biết cách xử
sự tháo gỡ vướng mắc của họ phù hợp với pháp lý và đạo lý.
(iii) Tính chất phản biện: Tính chất
phản biện trong hoạt động của luật sư là những biện luận nhằm phản bác
lại lý lẽ, ý kiến quan điểm của người khác mà mình cho là không phù hợp
với pháp lý và đạo lý.
Tính chất phản biện trong hoạt động của
luật sư, thông thường thể hiện ở lĩnh vực tố tụng, đặc biệt là trong tố
tụng hình sự. Điều 36, khoản 3 Bộ Luật tố tụng hình sự hiện hành quy
định: “Người bào chữa có nghĩa vụ sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy
định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định bị can, bị cáo vô tội,
những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo; giúp bị
can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
họ”.
Phản biện là phải dựa trên sự thông
hiểu tường tận về pháp lý và đạo lý. Hoạt động phản biện của luật sư là
lấy pháp luật và đạo đức xã hội làm chuẩn mực để xem xét mọi khía cạnh
của sự việc nhằm xác định rõ phải trái, đúng sai…từ đó đề xuất những
biện pháp phù hợp bảo vệ lẽ phải, loại bỏ cái sai, bảo vệ công lý.
Ở đây có thể có câu hỏi đặt ra là trong
trường hợp không phát biện ra điều gì sai, không có cơ sở để phản biện
thì luật sư sẽ làm gì?. Xin nêu một câu ngạn ngữ phương Tây: “Luật sư
chỉ giỏi khi gặp Công tố viên tồi”. Câu ngạn ngữ này có nghĩa là khi
người tiến hành tố tụng hoạt động hoàn toàn đúng pháp luật với những
nhận định và kết luận chuẩn xác thì không còn chỗ cho luật sư phản biện.
Luật sư không còn chỗ để phản biện, cũng giống như thầy thuốc không có
bệnh nhân để chữa thì thật là hạnh phúc.
Hoạt động của luật sư trong trường hợp
này chỉ còn ý nghĩa là người chứng kiến. Việc chứng kiến của luật sư
không phải là không quan trọng. Trong nhiều trường hợp, sự hiện diện của
luật sư là chỗ dựa tin cậy của bị can, bị cáo. Sự chứng kiến của luật
sư trong khi hỏi cung, khi đối chất, khi xét xử đảm bảo chắc chắn rằng
quyền và lợi ích hợp pháp mà pháp luật dành cho bị can, bị cáo sẽ được
bảo đảm.
Đăng bởi: CSKH - WLIKE: 0982 394 538
Nhãn: nghề luật, nghề luật sư, web wlike, wlike
0 Nhận xét:
Đăng nhận xét
Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]
<< Trang chủ