NGHỀ LUẬT SƯ Ở VIỆT NAM
Trong quá trình hành nghề luật sư, tôi nhận ra một sự thật rất đau đớn mà đã có lần tôi muốn từ bỏ nghề luật sư. Pháp luật Việt Nam được các cơ quan tiến hành tố tụng Việt Nam áp dụng một cách vô pháp, đặc biệt là đối với những vụ án chính trị.
Tôi đã được tham gia nhiều vụ án chính trị từ Bắc đến Nam, tất cả đều có một đặc điểm chung là:
- Vụ án không có chứng cứ/ hoặc chứng cứ không chứng minh được hành vi phạm tội của các bị cáo;
- Bản án dành cho các bị cáo không dựa trên các chứng cứ khách quan và trên cơ sở tranh luận;
- Lối suy diễn mang tính chủ quan được cơ quan công an, viện kiểm sát, tòa án Việt Nam áp dụng một cách triệt để, nhằm kết tội những người đấu tranh đòi tự do dân chủ cho Việt Nam.
Chính phủ Việt Nam đã đi ngược hoàn toàn với những gì đã được quy định trong Hiến pháp và Công ước Quốc tế về các quyền chính trị và dân sự. Ở Việt Nam quyền được bày tỏ những quan điểm không giống nhà nước/ hầu như bị truy tố và xét xử bằng những điều luật hết sức mơ hồ, chẳng hạn như điều 88 hay 79 của Bộ Luật Hình sự. Nói một cách cụ thể, ở Việt Nam các quyền con người không được nhà nước tôn trọng.
Một thực tế rõ ràng mà ai cũng nhận thấy là càng ngày càng nhiều các nhà trí thức, luật sư, luật gia đi tù chỉ vì bày tỏ quan điểm cá nhân của mình, thậm chí quyền yêu nước cũng phải chờ được nhà nước cho phép. Các đòi hỏi về tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do thành lập đảng, v.v… là những đòi hỏi mang tính “xa xỉ” hiện tại ở Việt Nam. Các thuật ngữ; “duyệt án”, “án bỏ túi”, “án định sẵn” không còn xa lạ gì với người quan tâm đến nền tư pháp Việt Nam.
Trước thực tế như thế, giới luật sư khi tham gia các vụ án chính trị luôn luôn bị hạn chế về quyền bào chữa khi thực hiện nhiệm vụ. Vai trò tích cực nhất của giới luật sư trong các vụ án này chỉ là chiếc cầu nối giữa gia đình với các bị can hay bị cáo đang bị giam giữ. Nhưng rất ít luật sư đủ can đảm để làm công việc này. Lý do là trong một giai đoạn dài, kể từ sau năm 1975, người ta đã quen với việc tòa xét xử không cần luật sư, và sau đó thì người ta lại hiểu rằng luật sư chỉ là người chạy án hoặc xin giảm nhẹ, khoan hồng. Hậu quả là tương lai của những luật sư có tâm huyết khi tham gia các vụ án này/ đều không mấy sáng sủa. Nhẹ thì bị tước quyền hành nghề, nặng thì bị đi tù như Luật sư Lê Quốc Quân, Lê Trần Luật, Nguyễn Văn Đài, Lê Công Định, Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ, Luật gia Tạ Phong Tần...
Trên quan điểm của mình, tôi không chấp nhận luật sư chỉ là cây cảnh hay vật trang trí để cho cơ quan tư pháp xử dụng, nhằm phô diễn nền dân chủ giả hiệu và càng không chấp nhận trở thành diễn viên để cùng hợp diễn vở tuồng dựng sẵn. Vì thế, để tiếp nối các bước cha anh đi trước, tôi đã quyết định không từ bỏ nghề luật sư. Tôi vẫn tiếp tục tham gia vào các vụ án để đạt được mục đích: công lý phải được thực thi, pháp luật phải được đưa vào cuộc sống.
Không thể nào Hiến pháp lại chịu sự chi phối và áp đặt của luật cũng như các văn bản dưới luật.
Không thể nào, trong một xã hội dân chủ văn minh khi công dân thực hiện quyền căn bản của mình theo quy định tại điều 69 của Hiến pháp lại bị tù đày bởi các điều 79, 88, 257, 258... của luật hình sự.
Nhà nước là "của dân, do dân và vì dân"! Nhưng khi người dân lên án những hành vi trái luật của cơ quan nhà nước một cách ôn hòa thì lại bị đàn áp một cách dã man và bị gán tội là có hành vi gây rối, hủy hoại tài sản. Nếu chính quyền hành xử đúng luật, theo nguyện vọng của nhân dân, thì làm gì có chuyện hàng chục người được cao ủy LHQ cấp quy chế tỵ nạn. Thái Hà và Cồn Dầu là hai vụ án điển hình minh chứng cho sự đàn áp thô bạo nhất ở đầu thế kỷ 21 mà mọi người đều thấy.
Những vụ án này cho thấy/ công dân Việt Nam nếu muốn “yên thân” thì phải biết im lặng trước mọi bất công hoặc phải hùa theo chúng. Dưới con mắt của Nhà nước, công dân Việt thật là trẻ con, ngô nghê nếu không muốn nói là ngu dốt.
Nước Việt thật oai hùng! Nhưng dân Việt thật bất hạnh!
Là con dân nước Việt, nên tôi có quyền và có nghĩa vụ yêu tổ quốc mình. Khi tổ quốc mình bị tổn thuơng, dân tộc mình bị bách hại thì dù trình độ luật sư của tôi còn kém cỏi, nhưng tôi thấy mình phải có nghĩa vụ bênh vực, cổ xúy cho lẽ phải, dù điều này sẽ mang đến cho tôi nhiều rủi ro mà ai cũng có thể biết trước.
Ai đó đã nói rằng: “Tự do và công lý không phải là món quà từ Trời rơi xuống. Muốn có được nó thì cần phải có sự đấu tranh”. Và chẳng có sự đấu tranh nào mà không có một số mất mát.
Sống trong một đất nước thiếu tự do/ và công lý đang bị chà đạp/ thì nghĩa vụ của người luật sư có lương tâm là phải lên tiếng. Tiếng nói có thể đơn lẻ, tiếng nói có thể lạc lõng giữa đám người đã đạt tới “đỉnh cao trí tuệ”, nhưng tiếng nói đó thật cần thiết vì nó đúng với lương tâm và trách nhiệm.
Chia sẻ của Luật sư Huỳnh Văn Đông
Sưu tầm bởi: Nguyễn Tuấn Anh - 0934621421
Nhãn: chứng cứ, luật sư, nghề luật, tố tụng, web wlike, wlike
0 Nhận xét:
Đăng nhận xét
Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]
<< Trang chủ